Các ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ hôm thứ Năm đã dễ dàng vượt qua “bài kiểm tra sức khỏe hàng năm” của Cục Dự trữ Liên bang trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đối với lĩnh vực này khi bối cảnh các dấu hiệu nền kinh tế Hoa Kỳ có thể rơi vào suy thoái trong những tháng tới.
Kết quả cuộc kiểm tra
Kết quả cuộc kiểm tra hàng năm của FED cho thấy các ngân hàng có đủ nguồn lực để vượt qua tình hình suy thoái kinh tế nghiêm trọng và đủ điều kiện để họ phát hành mua lại cổ phiếu và trả cổ tức.
Ngân hàng trung ương cho biết 34 ngân hàng với hơn 100 tỷ USD tài sản mà FED giám sát sẽ phải chịu khoản lỗ tổng cộng 612 tỷ USD trong một cuộc suy thoái nghiêm trọng theo giả định. Nhưng điều đó không quá ảnh hưởng tới họ khi ngay cả trường hợp xấu nhất, họ vẫn có số vốn gần gấp đôi so với quy định.
Do đó, các ngân hàng bao gồm JPMorgan Chase (JPM.N), Bank of America (BAC.N), Wells Fargo (WFC.N), Citigroup (C.N), Morgan Stanley (MS.N) và Goldman Sachs (GS.N) ) có thể sử dụng phần vốn dư thừa vượt dự phòng của mình để chia cổ tức và mua lại cho các cổ đông. Những kế hoạch đó có thể được công bố sau khi kết thúc phiên giao dịch vào thứ Hai tới.
Jaret Seiberg, nhà phân tích của Cowen Washington Research Group cho biết: “Chúng tôi coi điều này là tích cực đối với các ngân hàng lớn, tương ứng với kỳ vọng trước đó về cuộc kiểm tra hàng năm. Các ngân hàng không chỉ hoạt động tốt mà cuộc kiểm tra còn cho thấy họ có thể vượt qua thời kỳ suy thoái nghiêm trọng khi giá trị bất động sản thương mại và cổ phiếu sụt giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng."
Ngân hàng lớn nhất Mỹ ca ngợi kết quả này như một dấu hiệu cho thấy sức khỏe tài chính mạnh mẽ của ngành ngân hàng. Tuy nhiên Sherrod Brown, Chủ tịch đảng Dân chủ của Ủy ban Ngân hàng Thượng viện Hoa Kỳ, chỉ trích rằng cuộc kiểm tra là không đủ nghiêm ngặt.
Theo bài kiểm tra hàng năm được thiết lập sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009, FED đánh giá bảng cân đối kế toán của các ngân hàng liệu có đủ khả năng để vượt qua một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng theo giả thuyết hay không. Kết quả bài kiểm tra sẽ quyết định ngân hàng cần bao nhiêu vốn để dự phòng và bao nhiêu họ có thể trả lại cho cổ đông.
Mặc dù các kịch bản năm 2022 đã được đưa ra trước khi Nga xâm lược Ukraine và triển vọng siêu lạm phát hiện tại, nhưng chúng mang lại cho các nhà đầu tư và các nhà hoạch định chính sách sự an ủi rằng các ngân hàng của đã chuẩn bị tốt cho những gì các nhà kinh tế cảnh báo là một cuộc suy thoái tiềm năng của Hoa Kỳ có thể đổ bộ vào cuối năm nay hoặc năm sau.
Trường hợp 34 ngân hàng tham gia kiểm tra bị lỗ nặng trong kịch bản năm nay, nền kinh tế sẽ chứng kiến mức suy giảm 3,5%. Một phần do giá trị tài sản bất động sản thương mại sụt giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 10%. Nhưng ngay cả khi đó, FED cho biết tỷ lệ vốn tại các ngân hàng vẫn cao gấp đôi mức tối thiểu mà các cơ quan quản lý yêu cầu.
Những bằng chứng lạc quan
Vào năm 2020, FED đã loại bỏ mô hình kiểm tra "đạt-không đạt" và đưa ra một chế độ vốn dành riêng cho ngân hàng với nhiều tiêu chuẩn hơn.
Bài kiểm tra đánh giá rằng liệu các ngân hàng có thể duy trì trên tỷ lệ vốn tối thiểu 4,5% được yêu cầu hay không - một thước đo để đánh giá các ngân hàng khi phải hấp thụ các khoản lỗ tiềm ẩn. Các ngân hàng hoạt động tốt thường có số vốn dự trữ ở trên mức đó.
FED cho biết tỷ lệ vốn trung bình của 34 ngân hàng là 9,7%. Năm ngoái, con số này là 10,6% khi FED kiểm tra 23 ngân hàng. Tuy nhiên con số này đạt được trong một sự kiểm tra dễ dàng hơn so với năm nay.
Theo phân tích kết quả của Reuters, tỷ lệ vốn trung bình của 8 "ngân hàng quan trọng nhất trên toàn cầu" (hay còn gọi là GSIB) là 9,64%.
Cổ phiếu của Bank of America, ngân hàng tỷ lệ vốn thấp nhất trong số các GSIB là 7,6% đã giảm sau giờ giao dịch. Cùng với đó là cổ phiếu của Citigroup khi tỷ lệ này ở mức 8,6%. Cổ phiếu của State Street (STT.N) với tỷ lệ 13,2% đã tăng nhẹ.
Các ngân hàng nước ngoài cũng đã đã vượt qua cuộc kiểm tra, với tỷ lệ vốn trung bình cho bảy đơn vị được kiểm tra là 15,2%.
Nhìn chung, Công ty cho vay khu vực Huntington Bancshares Incorporated (HBAN.O) có tỷ lệ thấp nhất là 6,8%, trong khi các hoạt động của Deutsche Bank tại Hoa Kỳ có tỷ lệ cao nhất là 22,8%.
Thử nghiệm này cũng đặt ra "vùng an toàn vốn" của mỗi ngân hàng, một vùng an toàn vốn tăng thêm lên trên mức tối thiểu theo quy định. Quy mô của mức “an toàn” này được xác định bởi các khoản lỗ giả định của mỗi ngân hàng trong quá trình thử nghiệm. FED sẽ công bố những vùng khoảng an toàn đó trong những tháng tới.
Các nhà phân tích của ngân hàng Credit Suisse trong tuần này ước tính mức an toàn vốn trung bình cho các ngân hàng lớn sẽ tăng lên 3,3% so với mức 3,2% vào năm 2021. Con số ước tính trong khoảng từ 2,5% đến 6,3%. Credit Suisse cho biết số lượng vốn cho vay được phân phối lại cho các cổ đông vào năm 2022 sẽ giảm khoảng 10% so với một năm trước đó.
Ngành ngân hàng là huyết mạch của mọi nền kinh tế. Cuộc khủng hoàng tài chính năm 2008 diễn ra đã cho thấy được sự ảnh hưởng lớn của việc giữ “sức khỏe” của ngành ngân hàng an toàn và ổn định. Đây có thể là một tín hiệu mừng đối với những người lạc quan vào tình hình suy thoái. Tuy nhiên, mọi thứ đều là giả định và không gì là không thể xảy ra, nhất là khi bài kiểm tra đã bỏ qua những yếu tố bất ngờ từ cuộc chiến Ukraine cũng như lạm phát vượt bậc. Nếu con số lạm phát không thực sự sụt giảm và trở nên lâu bền trong nền kinh tế, các ngân hàng sẽ phải chịu thêm những áp lực và mức độ suy thoái kinh tế sẽ nghiêm trọng hơn và tác động mạnh đến rất nhiều tài sản trong đó có kênh trú ẩn là vàng.